Rải rác trên nhiều
miền đất nước cho đến ngày nay vẫn còn những quán Đạo giáo. ở đó các chữ đề trên biển, trên bia, trên chuông… đều
ghi rõ là Quán, song nhân dân phần lớn
lại gọi là Chùa, điều đó chứng tỏ Đạo
giáo và Phật giáo có sự thâm nhập - thậm chí hòa trộn nhau theo xu hướng Đạo
giáo tan vào Phật giáo. Biểu hiện cụ thể là rất nhiều chùa, trên Phật điện có cả
một số vị thần của Đạo giáo – chí ít là bộ tượng Ngọc Hoàng với nam tào và bắc
Đẩu ở hai bên, mà lại ở ngay hang dưới cùng gần chúng sinh nhất. Vì thế đã có
người nghiên cứu nhận xét rất đúng rằng: Người Việt Nam theo Đạo giáo mà không
biết rằng đó là Đạo giáo.
Nói đến Đạo giáo là nói đến vấn đề
thần tiên với những kỳ phương dị thuật. Tư tưởng này vốn phổ biến ở xã hội
nguyên thủy, mà ở Việt Nam do công xã nông thôn chậm giải thể, nên tàn tích của
nó tồn tại dai dẳng mãi đến thế kỷ 20. Các truyền thuyết về thời các Vua Hùng dựng
nước đầu tiên cho rằng Lạc Long Quân có nhiều phép trị được cả Hồ Tinh lẫn Mộc
Tinh; Chử Đồng Tử có thuật chữa bệnh và xây thành trong chớp nhoáng; An Dương
Vương được thần Kim Quy cho bảo pháp trừ tinh gà để xây thành Cổ Loa… Trên cơ sở
tín ngưỡng dân gian ấy, người Việt cổ khi tiếp xúc với văn hóa Hán đã tiếp nhận
những yếu tố phù hợp trong Đạo giáo của Trung Quốc. Đạo giáo của Trung Quốc coi
Lão Tử là ông Tổ, đưa ra cách sống theo lẽ tự nhiên của vạn vật, và đó chính là
cái đạo không hề hủy diệt. Nhưng sau đó Trang Tử đã thần bí hóa cái “đạo” của
Lão Tử, xem nó là “thiên cơ” mà chỉ có các “chân nhân” mới nắm được nên đã trở
thành thần tiên. Với các hoạt động phù phép và luyện đan để chữa bệnh và sống
lâu, nó gặp lại tín ngưỡng nguyên thủy, và do đó khi thâm nhập vào Việt Nam đã
được người Việt dù có hành lễ trước thần điện Đạo giáo, có những hoạt động phù
thủy hay thần tiên cũng không biết mình theo Đạo giáo. Và với chủ trương sống
theo thiên nhiên đã nảy sinh ở mọi người tình cảm ưa thích thiên nhiên, mở rộng
ra là yêu sông núi đất nước, từ đó dẫn đến tình yêu Tổ Quốc gấm vóc. Tư tưởng ấy
thấm vào cả các nhà sư và nhà Nho, để rồi làm giàu cho kho tàng văn học nghệ
thuật với nhiều tác phẩm nổi tiếng quanh chủ đề này. Tự Đức dù phê phán Đạo
giáo đủ điều thua kém Nho giáo, vẫn phải thừa nhận nó có cái hay là tôn trọng tự
nhiên. Bàn về Bá gia, Nguyễn Đức Đạt
viết trong sách Nam Sơn tùng thoại rằng
“Đạo giáo làm vui cho thân mình, đạo Thích làm vui cho đời” và “Đạo Lão chuộng
thanh tịnh, đạo Thích chuộng từ bi”. Nếu xa xưa, Đạo giáo Việt Nam sáng tạo được
hình mẫu Ông Tiên dân tộc là Chử Đồng Tử với tất cả những tính người trong đời
thường như hiếu thảo với cha nghèo, bẽn lẽn với phụ nữ, chung thủy với vợ hiền,
thành kính với vua cha, lao động để tự lập, chan hóa với nhân dân… thì rồi sau
đó ông Tiên trong các truyện cổ luôn là chỗ dựa của mọi người lao khổ.
Nếu trong thời phong kiến tự chủ, Đạo giáo Việt Nam suy tôn anh hùng dân tộc Trần
Hưng Đạo thành “Đức Thánh Cha” cùng với cả gia đình thành những vị thần có tài
trừ ma diệt quỷ, đồng thời có suy tôn nhân vật Liễu hạnh huyền thoại nhưng rất
người thành “Đức Thánh Mẹ”, để rồi “Tháng tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ” là những
dịp sinh hoạt văn hóa nhộn nhịp của đông đảo nhân dân miền Bắc… thì đã củng cố
trong mỗi nhà tình nghĩa thờ cha kính mẹ, mở rộng ra cả nước là sự tôn kính các
anh hùng dân tộc, gắn bó mọi người trong cả nước cùng là “con mẹ con Cha” để
cùng nhau dựng nước và giữ nước. Với những sinh hoạt thổi bùa, vẽ khoán, phù thủy,
bói toán… Đạo giáo có tính thần bí huyền hoặc, từ đó dẫn đến mê tín dị đoan.
Song bên cạnh đó, chẳng những nó có giá trị văn hóa về mặt tinh thần, mà trong
một số trường hợp tư tưởng thần bí, nó còn là ngọn cờ tập hợp nhân dân đánh giặc
cứu nước, mà nổi rõ là ở cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Với hình thức cầu đồng,
giáng bút, nó công khai nhưng không hợp pháp, huy động các thần linh, các anh
hùng dân tộc, nào Tiên, nào Thần Tứ trấn thăng Long, nào Thánh Gióng, nào Tướng
quân Phạm Ngũ Lão, nào Tổng đốc Hoàng Diệu… đều có thơ kêu gọi cháu con phải
tìm cách rửa hận. Những câu thơ giáng bút đã thức tỉnh dân chúng như một sự chuẩn
bị về mặt tinh thần, để sau đó đón thời cơ khởi nghĩa. Trong điều kiện vũ khí thiếu thốn
thì niềm tin có Thần hóa thân vào thủ lĩnh để cầm quân, có bùa hộ mệnh cũng đã
tạo sự dũng cảm cho quần chúng xông lên.
(Chu Quang Trứ, Di sản văn hóa dân tộc trong tín ngưỡng và
tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Thuận Hóa, 1996, trang 13-16)
Đạo giáo ở Việt Nam
Reviewed by Unknown
on
05:15
Rating:
No comments: