Welcome To Blogger

Yếu tố phân tâm học trong Kafka bên bờ biển của nhà văn Murakami Haruki




I. Giới thiệu nhà văn Murakami Haruki

Murakami Haruki sinh năm 1949 tại Kyoto nhưng lớn lên ở Kobe. Cha của ông từng là nhà sư, dạy văn học Nhật Bản ở cấp trung học và gặp mẹ ông ở đấy.  Ngay từ thuở nhỏ, Murakami Haruki đã có khuynh hướng phản kháng đối với văn hóa truyền thống. Thay vì chia sẻ với song thân quan tâm về văn học Nhật, ông tìm đọc mê mải tác phẩm của những tác giả Âu Châu thế kỷ XIX -Balzac, Flaubert, Chekhov, Dostoevsky, Dickens. Sau đó, ông học tiếng Anh, và đọc nguyên tác tiếng Anh những tiểu thuyết trinh thám, khoa học giả tưởng, Truman Capote, Kurt Vonnegut, Richard Brautigan... Ông ham mê nhạc Âu Mỹ: Elvis, Beatles, Beach Boys, nhạc Jazz... Thế giới mới đó quyến rũ ông đến nỗi không bao lâu sau khi kết hôn với bạn đồng học Takahashi Yôko, năm 1971, ông ngưng việc học ở Đại học Waseda, cùng vợ mở một quán rượu nhạc Jazz ở Tokyo. Ở quán Jazz đó, tên đặt theo con mèo ông nuôi là Peter Cat, ông hầu bàn, rửa chén đĩa, thay đĩa nhạc, bố trí nhạc công, và khi rảnh thì đọc rất nhiều sách và học tiếp khoá trình Đại học. Song thân ông rất thất vọng về việc ông lấy vợ sớm và quay lưng lại với đời công tư chức vẫn được xem là an toàn, an định, thậm chí lý tưởng trong xã hội Nhật lúc bấy giờ đang phát triển mạnh. Quán Jazz sống được 7 năm, ông và vợ ông cũng đã tốt nghiệp Đại học trong khoảng thời gian đó.
Năm 1978, ông bắt đầu viết văn, trong khi xem một trận đấu bóng chày thì ý nghĩ này chợt đến với ông. Tác phẩm đầu tiêng Lắng nghe gió hát xuất bản năm 1979, và ngay năm đó đã đạt ngay giải thưởng “Tác giả mới – Gunzo”. Sau đó, ông tiếp tục cho ra đời những tác phẩm khác và gây được tiếng vang với Rừng Nauy -  tác phẩm đã đưa ông lên địa vị “siêu sao” trong văn học Nhật Bản. Ngay trong năm đầu tiên, Rừng Nauy đã bán được 1 triệu bộ.
Sau  Rừng Nauy, Murakami tiếp tục gặt hái thành công với tác phẩm Kafka bên bờ biển – tác phẩm đã thực sự khẳng định vị trí của Murakami trong giới văn học.  Koyama Tetsurô của hãng thông tấn Kyodo News nhận xét (năm 2004): "Hiện nay, Murakami Haruki là tác giả văn-học-thuần-túy (pure literature) duy nhất cứ mỗi lần tác phẩm mới phát hành là đạt ngôi vị sách bán chạy nhất (Nhật Bản). Tác phẩm mới nhất của ông là "Kafka Bên Bờ Biển - UmibeNo Kafuka" ngay trong tháng đầu tiên (tháng 9, 2002) đã bán được 600 ngàn cuốn".
Tạp chí The New York Times số ra ngày 11/12/2005 trong mục bình chọn 10 tác phẩm văn học xuất sắc nhất năm 2005 đã nêu tên cuốn "Kafka On The Shore - Umibe no Kafuka - Kafka Bên Bờ Biển" của Murakami Haruki đầu tiên, tán thưởng rằng đây là công trình của một tác gia đường-đường tự tín.
Qua những thành công có được, Murakami đã trở thành một hiện tượng văn học của Nhật Bản. Từ điển Bách Khoa Columbia, ấn bản năm 2001, ghi rằng Murakami Haruki "được công nhận một cách phổ biến là một trong những tiểu-thuyết-gia-thế-kỷ-XX quan trọng nhất của Nhật Bản". Đề cập đến thời đại lắm bão tố hiện nay ở Nhật, Matsuda Tetsuo của Báo Yomiuri Shimbun, tờ nhật báo có số in lớn nhất Nhật Bản, viết:"Trong bất cứ trận bão lớn nào cũng có những nhà văn giương cao ngọn đèn soi cho quần chúng. Murakami Haruki đang và sẽ lãnh vai trò đó". Báo The Guardian ở nước Anh viết: "không có nhiều tác giả cùng thời với ông mà tác phẩm lôi cuốn được giới độc giả trẻ trực tiếp đến như thế, không chỉ trong nước ông mà còn trên khắp thế giới".

II. Giới thiệu tác phẩm Kafka bên bờ biển
Kafka bên bờ biển ( 2002)  là một tác phẩm rất thành công của Murakami, đã gây tiếng vang lớn đối với văn học thế giới. Cùng một lúc nhận hai giải thưởng: một trong mười tác phẩm văn học xuất sắc nhất năm 2005 do tạp chí The New York Time bình chọn và giải thưởng văn học Franz Kafka năm 2006. Kafka bên bờ biển  đã nhận được nhiều lời ngợi ca mà bất cứ một người cầm bút nào cũng ao ước: “Một cuốn sách để- ngấu- nghiến thật sự, cũng thật là một ám ảnh siêu dai dẳng” (John Updike),“Tiểu thuyết khác thường và mê hoặc nhất cho tới nay của thần tượng văn chương Nhật Haruki Murakami” (Vintage), “Cuốn sách là một hỗn hợp chừng mực giữa giật gân, kỳ ảo và văn chương, và nó thuyết phục một cách đặc biệt. Lại một lần nữa ông đã tạo ra một câu chuyện khiến bạn lật qua nhanh chóng đến lạ, để rồi ghi nhớ và băn khoăn về nó lâu dài (Hugo Barnacle). Và “… chưa bao giờ tôi gặp một cuốn sách thuyết phục được mình đến thế bởi sự sáng tạo trong trần thuật và sự yêu thích kể chuyện… hấp dẫn vô cùng” (Stuart Jeffries, Guardian).
Phải khẳng định rằng tiểu thuyết Kafka bên bờ biển chịu ảnh hưởng rõ rệt bởi kĩ thuật viết văn phương Tây và không nhiều mối liên hệ với văn học truyền thống Nhật Bản (đó là cảm nhận ban đầu của không ít độc giả). Các nhà phê bình đã cố gắng chỉ ra rằng tiểu thuyết này là một hỗn hợp gồm có: Sophocles, phim kinh dị, truyện tranh Nhật Bản, cả yếu tố kì ảo, hoang đường của M. Bulgakov, của Franz Kafka… Đây là điều không ai có thể phủ nhận. Các nhà văn lớn của Nhật Bản như Kawabata, Tanizaki,… và đến Murakami đều xác nhận mình chịu ảnh hưởng của văn chương phương Tây. Tác phẩm của họ mang nhiều dấu ấn của lối viết văn siêu thực, kì ảo, dòng ý thức… Giới phê bình văn học phương Tây, thậm chí cả các nhà phê bình gạo cội Nhật Bản cũng cho rằng: văn chương Murakami không có màu sắc Nhật Bản, là “xa rời truyền thống” và “nặng mùi bơ” (Kenzaburo Oe). Tuy vậy, Kafka bên bờ biển, cho dù là sự tổng hợp của kĩ thuật viết văn thế giới: chủ nghĩa siêu thực, hiện thực kì ảo, bi kịch Hi Lạp, ảo giác, chiêm bao, định mệnh… thì cuốn sách vẫn chứa đựng rất nhiều thành tố văn hóa Nhật Bản, vẫn được coi là “cuốn tiểu thuyết giàu màu sắc Nhật Bản nhất”.

Tóm tắt tác phẩm Kafka bên bờ biển:

Kafka bên bờ biển là một câu chuyện đặc biệt. Có hai mạch chuyện song song diễn ra vào cùng một

 thời gian và khác nhau về không gian: Những chương lẻ kể về cuộc phiêu lưu của cậu bé mười lăm

 tuổi Kafka Tamura, con trai nhà điêu khắc tiếng tăm Koichi Tamura, bỏ trốn khỏi nhà ở Tokyo để

 thoát khỏi lời nguyền cay độc của người cha đã giáng xuống đầu mình: giết cha và cưỡng hiếp mẹ 

và chị gái. Những chương chẵn kể về cuộc đời của Nakata, một ông già lẩm cẩm đã mất khả năng

 biết đọc biết viết sau một tai nạn bí hiểm từ tuổi thơ, nhưng bù lại Nataka lại nghe được tiếng mèo. 

Trên hành trình dài, Kafka đã gặp Sakura, người cậu luôn băn khoăn liệu có phải là chị gái của mình. 

Kafka dừng chân ở Takamatsu, tìm đến một thư viện tư nhân của dòng họ Komura để đọc sách hàng

 ngày. Một sự việc kỳ bí đã xảy ra: Cậu đột ngột ngất đi và khi tỉnh dậy, thấy áo quần mình thấm đầy 

máu . Kafka buộc phải nhờ tới sự trợ giúp của Sakura. Sau đó, nhờ sự giúp đỡ của Oshima, người

 làm tại thư viện, cậu được nhận việc tại đây và hàng ngày gặp gỡ người phụ nữ năm mươi hai tuổi

 Miss Saeki. Một mặt, Kafka luôn trăn trở Miss Saeki có phải là mẹ mình, mặt khác cậu đem lòng

 yêu thương linh - hồn - sống thuở mười lăm của Miss Saeki đêm đêm tìm về phòng cậu. Đang chới

với giữa hai bờ hiện thực và huyền ảo, quá khứ và thực tại, Kafka nhận tin cha cậu đã bị giết chết vào

 đêm cậu ngất đi. Đó cũng là lúc câu hỏi đầy ám ảnh dấy lên trong lòng cậu thiếu niên mười lăm tuổi:

 có phải lời nguyền đã ứng nghiệm,có pải chính cậu đã giết cha mình? Về Nakata, trong khi tìm mèo 

lạc, một cách vô thức ông đã phải giết Johnnie Walker, kẻ hủy diệt mèo hàng loạt. Từ đó ông bắt đầu 

dấn thân vào một cuộc phiêu lưu huyền bí với những sự kiện không có lời giải thích: trận mưa cá 

ngừ và mưa đỉa; cùng với chàng lái xe tải chất phác Hoshino đi tìm "phiến đá cửa vào". Cuộc hành
 
trình của Kafka và Nakata giao nhau tại hòn đảo Takamatsu. Cuối cùng Nakata cũng chết, một cái

 chết thanh thản sau khi hoàn thành sứ mạng tìm thấy phiến đá thần kỳ, Miss Seaki cũng ra đi đầy 

mãn nguyện sau khi gặp Kafka trong giấc mơ ở khu rừng được gọi là "bên rìa thế giới", nơi trung 

gian giữa cuộc sống thực tại và thế giới bên kia. Kafka trở về từ khu rừng đó và tiếp tục cuộc sống ở 

tuổi mười lăm của mình, thực hiện ước nguyện của Miss Seaki là ngắm bức tranh "Kafka bên bờ 

biển" và tưởng nhớ tới bà, trở lại cuộc sống của một con người bình thường, bỏ qua thù hận và tha 

thứ cho cha của mình.

III. Giới thiệu thuyết phân tâm học của S. Freud.

S. Freud tên đầy đủ là Sigmund Schlomo Freud, nguyên là một bác sĩ thần kinh học người Áo, gốc Do Thái. Ông là người đặt nền móng cho phân tâm học và phát triển lĩnh vực này. Cho đến nay, tuy lý thuyết về phân tâm học vẫn còn gây nhiều tranh cãi, nhưng thuyết này đã được áp dụng không chỉ vào vấn đề trị liệu thần kinh mà còn góp phần bổ khuyết về một khía cạnh khác của phê bình văn học, đó là phương pháp phê bình phân tâm học, “... nó gợi mở cho giới phê bình nghiên cứu cách thức đổi mới cảm xúc, đặc biệt để phân tích các động lực phái sinh từ một tác phẩm văn chương, theo phương pháp và cách thức rút ra kết luận của phân tâm học” (Từ điển Bordas về văn học Pháp). Thông qua những yếu tố phân tâm học ẩn dưới những tính cách, hành động của nhân vật, chúng ta có thể tiếp cận nhân vật theo chiều sâu nội tâm, để từ đó ta có thể đọc được một tác phẩm văn học tốt hơn, mà theo như Freud nói: “ Công việc phân tích là tế nhị và khó chịu; người ta không thể sử dụng nó như sử dụng một chiếc kính kẹp mũi mà người ta kẹp vào để đọc sách và bỏ ra khi bắt đầu đi tản bộ”
Về mối liên hệ giữa phân tâm học và văn học,  S. Freud nói: “Các nhà thơ và các nhà tiểu thuyết là những đồng minh quý báu của chúng ta, và các bằng chứng của họ phải được đánh giá thật cao, bởi lẽ giữa lưng chừng thinh không họ biết được nhiều điều mà túi khôn học đường của chúng ta còn chưa dám mơ tới. Về kiến thức tâm lý, họ là bậc thầy của chúng ta, những kẻ tầm thường, bởi họ đã đắm mình trong những mạch nguồn nơi chúng ta còn chưa đưa khoa học lại gần được.”
Với thuyết phân tâm học, S. Freud được đánh giá là “… một người mà tên tuổi mãi mãi đứng cùng hàng với những tên tuổi như Darwin, Copernic, Newton, Marx và Einstein; một người đã thật sự làm biến đổi cách thức chúng ta suy nghĩ về ý nghĩa của cuộc sống và của xã hội con người” – David Stafford-Clark
-            Nội dung thuyết phân tâm học:
Thuyết phân tâm học được xây dựng trên khái niệm vô thức. Freud quan niệm: “Tất cả các hiện tượng tâm thần của con người về bản chất là hiện tượng vô thức. Vô thức là phạm trù chủ yếu trong đời sống tâm lý của con người. Mọi hoạt động trong tâm trí đều bắt nguồn từ trong vô thức và tùy theo tương quan của những lực lương thôi thúc và ngăn cản được biểu hiện ra theo những quy luật khác hẳn với ý thức.”
Phần cống hiến quan trọng nhất trong học thuyết phân tâm học của Freud là quan điểm về cấu trúc nhân cách con người. Ông đã vạch ra hướng nghiên cứu mới về nhân cách trong cách  nhìn mới với sự xuất hiện vai trò của vô thức. Và quan điểm này được thể hiện trong tác phẩm “ Lí thuyết cơ cấu toàn diện nhân cách hay lí thuyết về ba tầng nhân cách (Theorie de trois instances de la personnalite)”.  Theo đó, cấu trúc này gồm 3 tầng:
-            Tầng bản năng Ca (còn gọi là tầng phi ngã – cái ấy – id, thuật ngữ Ca được Freud lấy lại từ Nietzsche): chứa đựng những cội nguồn cơ bản của tình cảm, những dục vọng, các trạng thái tâm lý.
-            Tầng bản ngã ( cái tôi – ego ): là tầng mà ở đó, con người kiểm soát được hành vi tâm lí xã hội của nó, là tầng hữu thức đối lập với tầng bản năng – phi ngã. Nó chính là các hoạt động có ý thức của con người, là kết quả của sự tiến triển cửa một phần từ cái phi ngã, qua ảnh hưởng, tương tác với thế giới bên ngoài.
-            Tầng siêu ngã ( siêu tôi – superego ): được hình thành từ sự bất lực của bản ngã trước sự thúc ép của cái phi ngã, khi bản ngã bị đặt trong sức ép của bản năng và văn hóa, bản năng và các thiết chế xã hội…., cái tôi phải chấp nhận các thiết chế thể hiện qua các quy định về văn hóa, đạo đức, luật pháp, lối sống và thời đại.  Nguyên tắc hoạt động của cái siêu tôi dựa trên lương tâm và đạo lí.
-         Phân tâm học trong tác phẩm Kafka bên bờ biển
Trong Kafka bên bờ biển, Murakami đã khai thác các yếu tố phân tâm học để xây dựng hình tượng nhân vật cùng với những motip tưởng chừng quen thuộc nhưng lại rất thú vị, gây sức hấp dẫn đối với người đọc. Sự kết hợp giữa biểu tượng cổ mẫu trong văn học truyền thống cùng lối viết văn phương Tây tạo nên một Kafka bên bờ biển giao hòa giữa các yếu tố cũ và mới, làm nên sự đặc sắc của tác phẩm.
IV. Yếu tố phân tâm học trong Kafka bên bờ biển

11. “Mặc cảm Oedipe” – motip loạn luân
Câu chuyện về cậu bé Kafka Tamura trốn khỏi nhà vào ngày sinh nhật thứ mười lăm của mình gây ra sự tò mò với độc giả, mà theo như cậu bé thì cái động lực khiến cậu ra khỏi nhà chính là muốn thoát khỏi lời nguyền của người cha giành cho mình: “Một ngày kia, mày sẽ giết cha mày và ngủ với mẹ mày…”. Ở đây, ta bắt gặp một motip truyện khá phổ biến ở phương Tây, đó là câu chuyện Oedipe - vua của Sophocle.
Oedipe làm vua thành Thebes, đau xót vì nạn dịch xảy ra trong dân, đã cử Creon đến đền thờ thần Delphe để xin lời chỉ dẫn. Thần Apollon phán truyền phải trừng trị kẻ đã giết chết nhà vua trị vì thành Thebes trước kia hiện đang có mặt trong thành. Với trách nhiệm của người nắm vận mệnh đất nước, Oedipe quyết tâm đi tìm thủ phạm và cuối cùng sự thật về cái chết của nhà vua Laius đã được phơi bày.
Trước kia, vua Laius và hoàng hậu Jocaste bị một lời nguyền khủng khiếp là đứa con mà họ sinh ra sẽ là đứa con giết cha và lấy mẹ. Vì vậy khi đứa trẻ ra đời, họ đã sai một nô lệ mang đi giết chết. Nhưng người nô lệ không giết đứa trẻ mà mang cho một người chăn cừu ở thành bang Corinhthe nuôi dưỡng. Tình cờ đứa trẻ trở thành con nuôi của nhà vua Polipe ở thành bang Corinhthe. Đó chính là Oedipe. Lớn lên, bị xúc phạm, Oedipe đi cầu thần và được phán truyền: sẽ giết cha và lấy mẹ. Sợ hãi, Oedipe bỏ nhà ra đi để khỏi bị phạm tội. Dọc đường chàng gặp một chiếc xe ngựa. Do thái độ hống hách của những người trên xe, xung đột xảy ra, Oedipe đánh nhau và đã giết gần hết bọn người đó, trong đó có Laius. Oedipe đi đến thành Thebes. Đô thành này đang bị một con quái vật là Sphinx, mình sư tử đầu người đang gây tai họa. Chàng giải được câu đố bí hiểm của con vật, bắt nó phải đâm đầu xuống vực chết, trả lại bình yên cho kinh thành. Oedipe được suy tôn làm vua thành Thebes và cưới vợ góa của nhà vua trước. Khám phá ra sự thật, Jocaste tự tử chết, Oedipe tự đâm mù mắt mình rồi bỏ ngai vàng ra đi.
Một khái niệm cơ bản của phân tâm học: “mặc cảm Oedipe” được Freud  rút ra từ vở kịch trên, còn có thể gọi đó là một motip truyện – motip loạn luân. Motip này do Ernest Jones nhận ra khi đem so sánh Hamlet và Oedipe. Tuy nhiên, motip loạn luân trong Hamlet của W. Shakespeare có một biến thái mới, đó là loạn luân và huynh đệ tương tàn, hay hiện hình nguyên vẹn trong Anh em nhà Karamazov của Dostoievski. Sự hiện diện của motip này khá phổ biến, tới mức Marthe Robert, trong cuốn Tiểu thuyết của những khởi đầu và những khởi đầu của tiểu thuyết, đã nhấn mạnh: “Mặc cảm Oedipe là một hành vi nhân loại phổ quát, mà không một hư cấu nào, một sự tái hiện nào, không một nghệ thuật về hình tượng nào lại không trở thành , dưới một kiểu nào đó, minh họa sinh động cho mặc cảm này. Trong ý nghĩa này, tiểu thuyết là thể loại “mang tính Oedipe” nhiều nhất trong số các thể loại văn chương…”
Nhân vật Kafka mà Murakami tạo lập cũng rơi vào “mặc cảm Oedipe”. Cậu bé lớn lên trong nỗi sợ hãi, lo âu một ngày nào đó mình sẽ phạm tội “giết cha và loạn luân với mẹ”. Những chấn thương tinh thần đó khiến cậu tạo ra một sự tự vệ chính đáng, cậu bỏ nhà ra đi vào ngày sinh nhật mười lăm tuổi của mình. Với một số phận đã được định trước, Kafka dĩ nhiên có thể “giết chết” cha mình nếu cậu “thực sự muốn” và xóa hình ảnh mẹ mình ra khỏi trí nhớ. Nhưng Kafka không thể xóa được cái gen họ truyền cho mình, bởi vì “nếu tôi muốn khử cái đó đi thì chắc tôi phải thủ tiêu chính mình”. Và lời tiên tri, đó lại chính là cái “cơ chế” được “gá” bên trong Kafka. Dưới góc nhìn phân tâm học của Freud, cái “cơ chế” đó có thể lí giải như là một thuộc tính tâm lý của đứa trẻ. Từ khi mới sinh ra, đứa trẻ thông qua hành động bú mớm, sự tiếp xúc với bầu vú của người mẹ mà tạo ra một xúc cảm gọi là xúc cảm tính dục (libido). Xúc cảm đó khiến cho đứa trẻ có ý muốn sở hữu mẹ của mình. “Freud cho rằng, vì những liên hệ đầu tiên của đứa trẻ thường gắn với mẹ nó, hay với người nào làm vai trò của mẹ nó về những sự chăm sóc đầu tiên và về giáo dục, nên người mẹ bao giờ cũng là tình yêu thương đầu tiên của đứa trẻ”. “Nhưng ngay trong tuổi ấu thơ , sự say mê thầm kín của đứa trẻ đối với mẹ không thể được đứa trẻ coi là vô tội, cũng không được thỏa mãn dầy đủ. Sự say mê ấy không thể được thỏa mãn vì đứa trẻ không dành được mẹ về nó hoàn toàn; sự say mê ấy không thể là vô tội vì đứa trẻ gắn liền với thái độ rõ ràng không tán thành của bố mẹ đối với sự hưng phấn tính dục của nó với những tình cảm ghen tị và tranh chấp thầm kín của nó đối với người bố. Theo trực giác, nó không thể  không coi người bố là một đối thủ giành giật với nó về tình cảm, sự quan tâm và tất cả những thứ khác mà nó muốn có từ mẹ, nhưng mẹ thì lại cũng dành cho bố theo một lối nào đó” -  (David Stafford-Clark). Mặc cảm này xảy ra ở tâm lý trẻ từ 4 đến 6 tuổi, đó là thời kì “sùng bái dương vật” (Freud), mà người mẹ của Kafka ra đi lúc cậu 4 tuổi, sự thiếu vắng người mẹ đã trở thành một ẩn ức quan trọng trong đời sống tâm thần của nhân vật này. Đó là lí do Kafka khi soi gương, đã “ nhìn thật kĩ mình trong gương” vì cậu biết mình mang gen của cả cha và mẹ, mặc dù “ tôi không nhớ diện mạo mẹ tôi ra sao”.
Lời nguyền ám ảnh Kafka, khiến cho cậu, sau khi bất tỉnh và tỉnh lại trên đồi, nhìn thấy vết máu trên áo mình và nhận được tin cha mình đã chết, thì Kafka, đinh ninh rằng mình đã giết cha, đã thực hiện lời nguyền độc địa đó. Cái “cơ chế” đó đã trở thành cái vô thức trong Kafka mà ý thức của Kafka đã không kiểm soát được nó. Ngay từ khi cậu chọn rời khỏi ngôi nhà, rời khỏi người cha AND của mình thì cái “vô thức” đã trỗi dậy trong cậu. Và, chính là cái cơ chế đã “gá” sẵn trong cậu, là động lực giúp cho cái “vô thức” đó được thực hiện. Việc gặp gỡ Sakura, Miss Saeki và ý nghĩ hai người đó là chị, là mẹ mình chính là bước tiếp theo, cầu nối cho “mặc cảm Oedipe” tiếp diễn trong Kafka. Bước đầu là “đứa trẻ bỏ nhà lang thang”, kế tiếp là “ đứa trẻ được tìm thấy” và cuối cùng là “kẻ lai tạp”. Việc Kafka quan hệ tình dục với Miss Saeki chính là điểm hoàn thành lời nguyền ấy.
Murakami đã mượn dáng dấp của Oedipe để xây dựng nhân vật Kafka. Giống như Oedipe, Kafka cũng bị rơi vào lời nguyền “giết cha và ngủ với mẹ” khi cậu còn chưa hiểu hết được ý nghĩa của từ “ngủ” ấy. Nhưng Oedipe chưa hề biết đến sự tồn tại của lời nguyền ấy, việc giết cha rồi ngủ với mẹ của chàng hoàn toàn nằm ngoài ý thức của chàng. Còn Kafka, từ nhỏ đã biết đến sự tồn tại của lời nguyền đó, nó trở thành những cơn ác mộng phủ bóng lên cuộc đời cậu. Những giấc mơ đến với cậu đều mang một ý nghĩa nhất định, đó là kết quả của những “ham muốn dồn nén vào vòng vô thức”. Tâm hồn cô độc của Kafka luôn khao khát được gần mẹ, có lẽ vì thế mà khi gặp Miss Saeki, tình yêu và bản năng tính dục trong cậu trỗi dậy mạnh mẽ. Việc “ngủ” với mẹ và chị gái trong giấc mơ suy cho cùng là bản năng kiếm tìm, hòa hợp vào cội nguồn của cậu bé thiếu tình thương.
22. “Phức cảm Genji” trong nội tâm Kafka
Đi cùng với “mặc cảm Oedipe” trong thuyết phân tâm học của Freud là “phức cảm Genji”  - một cảm thức truyền thống trong văn học Nhật Bản đã được Murakami phóng chiếu vào xã hội, con người Nhật Bản hiện đại một cách tinh tế, thông qua tác phẩm của mình.
Truyện Genji (Genji monogatari) của nữ sĩ Murasaki Sikibu là tác phẩm thuộc thể loại tiểu thuyết được lưu giữ từ “kỉ nguyên vàng” – văn học Heian. Kiệt tác này ra đời khoảng thế kỉ XI, đã khai sinh  thể loại tiểu thuyết của văn học Nhật Bản và thế giới. Ở đó, yếu tố Thiền tông, tính nữ dịu dàng của văn chương Heian, cái đẹp bất toàn trong đời sống… thấp thoáng mơ hồ mà hiển lộ trong tính cách của các nhân vật, đặc biệt là hoàng tử Genji. Những ngôi sao sáng nhất của văn học hiện đại Nhật Bản như Yasunari Kawabata, Tanizaki, Mishima… đều chịu ảnh hưởng sâu đậm của cuốn tiểu thuyết kinh điển này.
“Phức cảm Genji” (Genji complex) là thuật ngữ mà các nhà phê bình dùng để chỉ một hiện tượng tâm lí, những nỗi xúc động, cảm xúc phức tạp của Genji- nhân vật chính. Tính cách Genji hiện lên hào hoa, độ lượng mà không lừa bịp, không thủ đoạn qua tất cả các mối tình mà chàng đã trải nghiệm trong cõi đời phù thế. Cốt lõi của “phức cảm Genji”, của hiện tượng tâm lí phức tạp này là một khát vọng “lưỡng tính”. Chàng tìm kiếm vẻ đẹp tình yêu thương vĩnh cửu của người mẹ trong hình ảnh người tình. Bản chất tình cảm của Genji đối với người mẹ kế Fujitsubo là như vậy, rất khó tách bạch. Đó là tình mẫu tử thiêng liêng cao quý hay là tình yêu nam nữ quyến rũ và đầy đam mê nhục thể? Cả hai điều đó dường như hòa trộn không phân biệt trong “phức cảm Genji”. Genji yêu mẹ kế ở độ tuổi thiếu niên (khoảng 15, 16 tuổi), ngay từ lần đầu tiên nghe kể về nàng: “Genji không thể nhớ khuôn mặt của mẹ, nhưng nghe lời người cung nữ lần đầu tiên nói về Fujitsubo với nhà vua, cậu thấy xúc động đến tận đáy lòng khi hay biết nàng giống mẹ cậu như tạc. Cậu luôn luôn quấn quýt bên nàng… Tình yêu thương của Genji đối với thứ phi mỗi ngày càng đậm, và thậm chí mỗi lần nhắc đến một bông hoa tầm thường nhất hoặc một chiếc lá nhuốm vàng cũng trở thành một dịp để chàng biểu thị tình cảm đó”.
Phức cảm Genji  - theo cách lí giải của phân tâm học – đó chính là phức cảm “người tình – người mẹ”. Về cơ bản, “mặc cảm Oedipe” và “phức cảm Genji”  đều cùng dùng để giải mã một hiện tượng: Người con trai có tình cảm đặc biệt (có thể gọi là tình yêu) đối với mẹ của mình. Vì vậy, đôi khi trong một số trường hợp, hai thuật ngữ này được sử dụng với ý nghĩa giống nhau.
Đối với nhân vật Kafka, “phức cảm Genji” được bộc lộ qua hành động “giết cha” trong giấc mơ và “lấy mẹ” trong trái thái hoàn toàn không ý thức. Thông qua hình ảnh Miss Saeki, Kafka tìm thấy trong đó vừa là người tình, vừa là người mẹ của mình. Trước hết là hình ảnh người mẹ trong Kafka: “ Người phụ nữ này gây một ấn tượng mạnh đối với tôi, khiến tôi cảm thấy nao nao nhớ. Giá bà là mẹ tôi thì tuyệt biết mấy! Tôi thường có ý nghĩ như vậy mỗi lần gặp một phụ nữ trung niên đáng yêu. Xác suất Miss Saeki là mẹ tôi hầu như là số không, tôi biết vậy”. Mặc dù biết Miss Saeki không phải là mẹ mình, nhưng đối với Kafka, bà mang dáng dấp của người mẹ của cậu. Việc mẹ cậu rời khỏi nhà năm cậu 4 tuổi khiến cho cậu thèm khát có tình thương của mẹ, và đó chính là nguyên nhân mà Kafka hoài nghi chính mình, cho rằng mình đã phạm tội “loạn luân” với mẹ đúng như lời nguyền quái ác đó.
Tuy nhiên, người mà Kafka yêu không phải là Miss Saeki của tuổi 45 mà lại chính là Miss Saeki của tuổi 15. “Khi trông thấy bà, người tôi căng cứng và tim đập thình thịch : tôi trông thấy cô gái mười lăm tuổi bên trong bà. Như một con thú nhỏ ngủ đông, cô cuộn mình nằm gọn một hốc bên trong Miss Saeki, thiêm thiếp giấc nồng”. Hình ảnh cô gái 15 tuổi đó chính là biểu trưng cho cái vô thức đã ngủ sâu trong Miss Saeki, là những ẩn ức bị dồn nén lại, và khi gặp được Kafka, cái vô thức đó đã trỗi dậy. Trong trường hợp này, nhân vật Miss Saeki cũng mang “ phức cảm Genji” tương tự. Bà nhìn thấy hình ảnh người yêu của mình trong hình ảnh của Kafka. Bà đã quan hệ tình dục với Kafka, nồng nhiệt và mãnh liệt trong vô thức. Chính cái vô thức đã dẫn dắt bà, những ẩn ức được giải phóng. Sự chung đụng thể xác với Kafka là sự cứu rỗi và thanh lọc tâm hồn đối với Saeki. Bà đã thoát khỏi sự ràng buộc của quá khứ, đối mặt và chấp nhận cái chết thanh thản sau khi giao lại bản thảo hồi kí về cuộc đời mình cho ông già Nataka. Khác với Oedipe phạm tội trực tiếp, Kafka “loạn luân” với mẹ bằng một hình thức gián tiếp. Cậu quan hệ tình dục với “hồn ma sống” của Saeki chứ không phải là thể xác Saeki thực sự. Và “phức cảm Genji” trong Kafka được chấp nhận bởi tinh thần Nhật Bản chấp nhận những cảm xúc này một cách tự nhiên. Vì thế, tuy trong cùng một hoàn cảnh nhưng Genji lại không có mặc cảm tội lỗi như Oedipe, và hành động của Genji cũng không bị kết án như Oedipe. “Phức cảm Genji” là một xúc cảm mang tính cổ mẫu của văn học Nhật Bản, mang tính cách tự nhiên. Xét từ góc nhìn truyền thống văn hóa Nhật Bản, có thể thấy người mẹ là “người nữ vĩnh cửu” trong tâm thức người Nhật. Xét từ góc nhìn của tâm lý, thì đứa con thường gần gũi với mẹ nhiều hơn, và chúng mặc nhiên dành hết tình yêu thương cho mẹ ngay từ những buổi đầu. Vì thế Kafka, thiếu vắng mẹ ngay từ khi 4 tuổi, đã luôn khao khát tìm kiếm mẹ của mình, và tình yêu cậu dành cho người con gái không phải ai, lại chính là cô gái 15 tuổi ngủ sâu trong Miss Saeki 45 tuổi. Cả Miss Saeki và Kafka đều yêu những con người không còn tồn tại, và họ đi tìm sự tồn tại của người tình trong hình bóng của đối phương. “Phức cảm Genji” tồn tại như một bản năng vô thức trong mỗi bản thể.
33. Tip nhân vật chấn thương tinh thần.
Nhân vật chấn thương tinh thần ( traumatisme psychique) là loại nhân vật luôn có, luôn mang theo trong chúng những cảm giác trầm nhược được biểu hiện ra ngoài thành nỗi sợ hãi, sự lo âu, xấu hổ hay đau đớn về thể xác… vốn là nguyên nhân khởi phát triệu chứng hysterie – triệu chứng bệnh lí tâm thần xuất phát từ sự căng thẳng do các vết thương, nhất là vết thương tinh thần gây ra mà chính S. Freud đã nhấn mạnh: “Chính những người hysterie khổ sở trước hết vì những điều sực nhớ ra”. Loại nhân vật này luôn chịu tác động của một vết thương tinh thần đặc biệt mà vết thương đó sẽ trở thành động lực dẫn dắt hành động của loại nhân vật này. Kiểu nhân vật này từng xuất hiện nhiều trong văn học phương Tây thế kỉ XX, đó là các nhân vật của E. Hermingway, Remarque, S. Beckett, J. P. Sartre (Buồn nôn),…
Nhân vật Kafka của Murakami cũng là một kiểu nhân vật chấn thương. Cậu – Kafka, trước hết thuộc loại nhân vật mang trong mình sự chấn thương tinh thần mà không phải cái gì khác mà chính là lời nguyền của người bố đẻ: “Một ngày kia, mày sẽ giết cha mày và ngủ với mẹ mày, cha em nói thế”, lời nguyền đó đã ám ảnh Kafka, cũng như cái cách nói và hình ảnh người cha khi ông ta phát ra lời nguyền tai quái và độc địa ấy. Và Kafka sống với nỗi sợ hãi, lo lắng rằng một ngày kia mình sẽ phạm vào cái lời nguyền của cha mình, cậu bé mười lăm tuổi từ đó sinh ra ý định phòng vệ trước số phận, mà cái việc làm thể hiện điều ấy chính là quyết định trốn khỏi nhà vào ngày sinh nhật của mình, cốt chỉ để tránh khỏi lời nguyền giành cho mình và đi tìm câu trả lời cho số phận của mình. Lời nguyền đó, vô hình chung đã trở thành “ động lực dẫn dắt hành động” của Kafka, nó là một bộ phận của thế giới vô thức trong tâm lý nhân vật này. Dù cho Kafka luôn có ý thức giữ chặt không cho nó lộ ra, nhưng lời nguyền ấy cũng cứ thừa cơ hội mà thoát ra khỏi lí trí của Kafka, để rồi cuối cùng chú bé đã thực hiện lời nguyền bằng việc làm đầu tiên là chạy trốn ra khỏi nhà – hành động rời xa mái ấm của mình giống như Oedipe của Sophocle – để chống trả cái định mệnh phũ phàng ấy.
Về kiểu nhân vật chấn thương tinh thần, ngoài Kafka thì nhân vật Satoru Nakata cũng mang trong mình chứng bệnh hysterie. Với vết thương tinh thần xảy ra tại Đồi Bát Cơm năm 1944, khi nhặt được chiếc khăn dính đầy máu mà cô giáo Setsuki Okamochi đã dùng khi hành kinh bất thường và bị cô giáo đánh thì nhân vật đã trở nên khác thường: vĩnh viễn mất đi trí nhớ, khả năng duy nhất ngoài con người là hiểu và nói được tiếng của loài mèo. Theo như Freud thì căn bệnh hysterie là những rối loạn nặng nề trong tâm lý dẫn đến chấn thương vùng não, người bệnh trở nên điên loạn hoặc mất đi một phần trí nhớ, và nhân vật Nakata rơi vào trường hợp đó. Trước phản ứng dữ dội của cô giáo Setsuki, Nakata có lẽ đã rơi vào trạng thái sợ hãi tột độ, “… tôi có thể thấy bộ mặt của Nakata khi tôi đánh nó. Vcai1 nỗi sợ ghê gớm và cam chịu trong mắt nó lúc bấy giờ.” – cô giáo Setsuki kể lại, và nỗi sợ hãi bị dồn nén tạo nên những ẩn ức nội tâm, để rồi sau khi tỉnh lại ở bệnh viện, về mặt thể chất, Nakata vẫn bình thường nhưng lại bị mất trí hoàn toàn. Xét về khía cạnh tiểu sử, Nakata là một cậu bé có khả năng mang chứng bệnh trầm cảm trong người, vì vậy sức phòng vệ rất yếu và không có khả năng ức chế cảm xúc trước một sự việc đột ngột nào đó. Và trường hợp sau khi bị ngất, Nakata bị mất trí nhớ là một trường hợp cá biệt, bởi vì chứng bệnh hysterie sau khi khởi phát làm cho bệnh nhân bất tỉnh, sau đó lại trở lại trạng thái bình thường. Tuy nhiên, “trí nhớ của các bệnh nhân không hề giữ lại một dấu vết nào của những tình tiết ấy (tức là tình tiết của sự kiện đã xảy ra – LNC) hoặc chỉ giữ được chúng ở trạng thái sơ sài nhất.”
Về phía cô giáo Setsuki, cũng là một kiểu nhân vật chấn thương tinh thần, bị ám ảnh bởi nhục dục thể xác, do những ẩn ức dồn nén bấy lâu. Hành động của cô giáo khởi phát từ căn bệnh hysterie, khi cô mơ về người chồng đang đi chiến trận ở Phillipine: “Cái đêm trước hôm đưa bọn trẻ đi chơi ngoại khóa trên đồi, tôi nằm mơ thấy chồng tôi ngay trước lúc rạng sáng. Anh ấy đã bị động viên ra mặt trận. giấc mơ đầy nhục dục và rất cụ thể - một loại giấc mơ cực kỳ sinh động đến nỗi khó mà phân biệt được giữa mơ và thực”. “Trong giấc mơ, chúng tôi làm tình trên một phiến đá rộng.” “… chúng tôi cưới nhau chưa được bao lâu, chiến tranh đã chia lìa mỗi người mỗi ngả. Thân thể tôi bừng bừng thèm khát chồng tôi.”
Mang nét tương đồng với cô giáo Setsuki, nhân vật Miss Saeki cũng mang theo những ẩn ức đau đớn kéo dài theo suốt cuộc đời và sẽ trở thành những cơn phát kích hysterie khi có điều kiện, nói theo cách nói của phân tâm học thì khi mà cái vô thức vượt thoát ra ngoài vòng kiểm soát của ý thức. Ẩn ức trong nhân vật Miss Saeki chính là bà đã từng có một mối tình say đắm của tuổi mười bảy đôi mươi, để rồi sau đó vĩnh viễn mất đi người mình yêu dấu và rút lui vào cuộc sống trầm tư trong khuôn viên một thư viện gia đình, để cùng sống lại với ký ức một thời đã qua. Những ký ức đó được hiện hình trong một tập bản thảo về thời thanh xuân mà bà đã yêu cầu đốt đi sau khi bà chết. Trong típ nhân vật này, cái vô thức thể hiện ra rõ rệt, “đó là tất cả những tình cảm, những ước vọng, những thèm muốn, những kỉ niệm xa xăm, những kinh nghiệm, những chấn động… đều đã bị trục xuất, khai trừ ra khỏi đời sống của ý thức với nhiều lí do khác nhau…”. Và theo S. Freud “ những ước muốn, những tình cảm, những dục vọng ấy,… tuy không được thỏa mãn, bị ức chế, bị dồn nén (refoule), bị chôn vùi, bị bịt miệng, nhưng không thể tiêu diệt được, chúng nằm chồng chất trong căn hầm vô thức này, đợi cơ hội, thời cơ để chạy trốn, vượt ngục ra bên ngoài tham gia vào đời sống của chúng ta”. Đối với cô giáo Setsuki thì giấc mơ đầy dục tính (libido – S. Freud) kia chính là cơ hội để cái vô thức (cái ấy) vượt ra khỏi cái ý thức (cái tôi), khiến cho căn bệnh hysterie được khởi phát khi thấy Nakata cầm chiếc khăn dính đầy máu. Hay nhân vật Miss Saeki, đắm chìm trong quá khứ về mối tình đầu say đắm để rồi khi gặp Kafka thì cái gọi là “xung năng tính dục” trỗi dậy và nó thôi thúc bà xuất “hồn ma sống” đến làm tình với cậu bé.
Ngoài ra, các nhân vật khác trong truyện cũng có mang dấu ấn của chấn thương tinh thần nhưng không nổi bật, không bị đẩy vào trạng thái dồn nén, tức là khi những lực lượng bản năng, những dục vọng, những ham muốn của con người bị thúc đẩy mạnh nhưng lại bị những thiết chế, những quy tắc, những lề thói được đặt ra trong đời sống cấm đoán, ngăn cản lại và đẩy tâm lí con người rơi vào trạng thái bị dồn nén.
44. Tip nhân vật lưỡng hóa nhân cách  - Quạ, cái siêu tôi.
Nhân vật lưỡng hóa nhân cách (nhân vật nhị hóa nhân cách) thể hiện qua những hành động mà lí trí không kiểm soát được, và cũng không giải thích được vì sao lại có thể hành động như vậy, tạo ra một cảm giác ai đó tồn tại trong ta, điều khiển ta theo sở thích của nó, khiến ta có thể hung dữ khác thường hoặc cũng có thể yếu hèn vô hạn không như cái bản thể hàng ngày của ta. Đó là hiện tượng lưỡng phân, hay lưỡng hóa nhân cách, khi ấy trong mỗi con người đều vừa là cái ego vừa là cái altego, vừa là nó mà không phải là nó. (LNC)
Sự lưỡng hóa nhân cách thể hiện sắc nét qua nhân vật Quạ, một hình tượng phân thân của chính Kafka. Trong tiếng Tiệp, Kafka có nghĩa là Quạ. Nhân vật Kafka trong tiểu thuyết của Murakami và nhân vật Quạ đồng hành với nhau trong suốt cuộc đời của chú là hai mặt của một bản ngã, là sự nhị hóa nhân cách, từ góc nhìn của phân tâm học. Chương đầu tiên của tiểu thuyết mang tên “Cái thằng tên là Quạ”, gắn với thời điểm Kafka chuẩn bị bỏ nhà trốn đi, và cuộc đối thoại của Kafka với Quạ trong đoạn mở đầu chỉ là hình thức độc thoại nội tâm đối thoại hóa đóng vai trò diễn tả tâm trạng của nhân vật chính. Nhân vật Quạ thường xuất hiện vào thời điểm mà Kafka chỉ có một mình, trở thành hình thức tự vấn để tìm lối thoát, là hình thức biểu hiện của cái tôi trong cuộc đấu tranh với cái phi ngã và cái siêu ngã.
Nhân vật Quạ còn xuất hiện vào thời điểm cuối truyện, khi Kafka quyết định trở về Tokyo để “kể cho cảnh sát nghe tất cả những điều em biết. Nếu không, họ sẽ truy tìm em suốt đời. Sau đó, rất có thể em sẽ trở lại trường. Không phải vì em muốn, nhưng ít nhất em cũng phải học hết trung học. Nếu trụ được mấy tháng và tốt nghiệp, em sẽ có thể làm bất cứ cái gì em muốn”. Với cách xử lý tình huống đó của Kafka, cái tôi đã chiến thắng cái phi ngã và thách thức cái siêu ngã, thách đố thế giới vô thức. Nhân vật Quạ đả an ủi cậu bé: “Cậu đã hành động đúng. Cậu đã làm những gì tốt nhất. Không ai khác có thể làm tốt như cậu. Xét cho cùng, cậu đúng là trang thiếu niên mười lăm tuổi kiên cường nhất thế giới này”. Đó, còn là sự tự an ủi mà Kafka dành cho chính mình, bởi Quạ chính là cái siêu tôi trong Kafka. . Kafka là một nhân vật bị quá khứ chi phối mọi hoạt  động và suy nghĩ của mình, cậu sống cứ luôn mang trong người một niềm phức cảm về lời nguyền mà người cha đem đến, phải đấu tranh giữa hiện thực và quá khứ. Quạ, một bản thể của Kafka, khác hẳn so với thực tại tính cách của cậu bé, quạ hiện lên với sự chính chắn, biết suy nghĩ, nó thể hiện cái tôi của Kafka, sự tồn tại bấy lâu trong cậu bé mà không thể trỗi dậy được, nó chỉ đôi khi xuất hiện bên cậu, cái tôi của một con người vốn đã có từ khi sinh ra và lớn lên, nhưng do cuộc sống thực tại đem đến mà nó không thể thể hiện được ra bên ngoài, mà tiềm ẩn trong tâm thức của con người. Quạ, cái tôi của Kafka, là một tính cách tốt. Trong bản thân của con người đều có phần con và phần người, cái tôi chính là phần con của con người, nó là thứ mà con người đã có sẵn từ khi sinh ra. Kafka từ nhỏ đã phải mang trong lòng lời nguyền của người cha, cậu luôn sống khác so với cái tôi chính chắn của mình, sống đúng với cái thằng tên là Quạ. Thông qua nhân vật Quạ, Murakami đã xây dựng một nhân vật Kafka đầy mâu thuẫn. Cậu luôn phải đấu tranh với số phận nhưng rồi lại không thể thoát khỏi số phận.
Trong “Lí thuyết cơ cấu toàn diện nhân cách hay lí thuyết về ba tầng nhân cách”, Freud đã trình bày về cấu trúc nhân cách gồm 3 tầng: tầng bản năng Ca, tầng bản ngã và tầng siêu ngã hay siêu tôi, mà nhóm thuyết trình đã nói đến ở phần “ Giới thiệu thuyết phân tâm học” trên. Dưới ảnh hưởng lý thuyết của phân tâm học của Freud, Murakami đã xây dựng nhân vật Quạ là cái siêu tôi của Kafka. Nó xuất hiện như lương tâm của Kafka. Nhà tâm lý học người Thụy sĩ C.Jung phân tích: “Trong tâm thức mình ai cũng có một cái bóng, một thực thể tâm lý, tâm hồn tồn tại một cách vô thức mà ông gọi đó là “bóng âm”. Cuộc đối thoại xuyên suốt tác phẩm giữa Kafka và Quạ thực chất là cuộc tranh luận giữa ý thức và vô thức trong con người Kafka. Nói theo phân tâm học của Freud thì nhân vật Quạ biểu tượng cho cái siêu tôi của Kafka. Nguyên tắc hoạt đông của cái siêu tôi dựa trên lương tâm và đạo lí. Cái siêu tôi là sự phát triển tinh thần cao hơn hết mà con người có thể đạt tới được và bao gồm mọi sự cấm đoán, mọi quy tắc cư xử do cha mẹ tạo ra nơi đứa trẻ. Tri giác lương tâm hoàn toàn tùy thuộc vào sự phát triển của cái siêu tôi.

 5. Thành công của Murakami
Murakami đã rất thành công với Kafka bên bờ biển khi khai thác yếu tố phân tâm học để lí giải những mâu thuẫn nội tâm một cách tinh vi. Những “mặc cảm Oedipe” và “phức cảm Genji” tưởng chừng quen thuộc nhưng lại được thể hiện rất mới và mang đậm chất Nhật Bản. Đồng thời, những biểu tượng cổ mẫu trong truyền thống văn hóa Nhật Bản kết hợp với kĩ thuật viết phương Tây, là sự giao hòa giữa cái cũ và cái mới khiến cho Kafka bên bờ biển đến với chúng ta vừa lạ mà vừa quen. Cốt truyện viết theo cấu trúc tự sự cùng với việc xây dựng song song hai tuyến nhân vật khiến cho Kafka bên bờ biển vừa khó hiểu nhưng gây sức hút với người đọc.



Yếu tố phân tâm học trong Kafka bên bờ biển của nhà văn Murakami Haruki Yếu tố phân tâm học trong Kafka bên bờ biển của nhà văn Murakami Haruki Reviewed by Unknown on 06:36 Rating: 5

No comments:

Powered by Blogger.